Náng hoa trắng hay Đại tướng quân hoa trắng (Crinum asiaticum L. Họ Amaryllidaceae) mọc phổ biến khắp từ Bắc vào Nam. Cây dễ trồng và cho năng suất thu dược liệu lớn hơn nhiều lần (gấp khoảng 6 lần) so với Trinh nữ hoàng cung (Crinum latifilium L.).
Năm 2001, nhóm tác giả người Nhật Bản và Hàn Quốc đã nghiên cứu và phân lập từ phân đoạn ethyl acetat ở cao chiết methanol thân rễ loài Crinum asiaticum var. japonicum được 3 alcaloid phenanthridine và một dẫn chất flavan bằng các phương pháp sắc ký kết hợp. 3 alcaloid đó là criasiaticidin, pratorimin và lycorin. Cả 3 alcaloid này đều có hoạt tính gây độc tế bào và hoạt tính kháng u in vivo. Lycorine, một alkaloid của phenanthridine – liên quan đến lycobetaine, cũng được phát hiện là có tác dụng kháng mô ung thư phổi thể tế bào lớn (large cell lung carcinoma) LXFL529 và ung thư phổi Lewis (LLC) (đối với trường hợp thứ hai, E[D.sub.50]=0,5mg/mL). Điều này được thử nghiệm in vivo trên chuột BDF-1 được cấy các tế bào LLC dưới da. Sau hai tuần điều trị, lycorine với liều 10mg/kg cho thấy có sự kháng ung thư, với tỷ lệ hạn chế ung thư là 80,5% vào ngày thứ 19. (Tỷ lệ hạn chế ung thư được tính bằng tỷ lệ phần trăm khối tế bào ung thư trung bình của nhóm được điều trị trong khối tế bào ung thư trung bình của nhóm được theo dõi).
Có thể kháng ung thư?
Cùng trong thời gian này, Trần Bạch Dương và cộng sự đó nghiên cứu về alcaloid của Trinh nữ hoàng cung (Crinum latifolium) và Náng hoa trắng (Crinum asiaticum) đã phân lập được 12 alcaloid từ Trinh nữ hoàng cung và 6 alcaloid từ Náng hoa trắng. Nhóm nghiên cứu đã khảo sát hoạt tính alcaloid toàn phần của Náng hoa trắng và Trinh nữ hoàng cung – đều thể hiện tính kháng khuẩn, kháng nấm và tác dụng ức chế rất mạnh 3 dòng tế bào ung thư người là Hep-G2, RD và FI. Trong một nghiên cứu khác, Phan Tống Sơn và cộng sự cũng đã công bố kết quả nghiên cứu các ancaloid từ cây Náng hoa trắng và xác định hàm lượng lycorin của loài này khá cao. Các tác giả này đã khảo sát hoạt tính sinh học và gây độc tế bào của ancaloid từ Náng hoa trắng.